shbet dev Trong các thời kỳ khó khăn (chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh), Nhà nước có thể nhanh chóng huy động các nguồn lực cho các lĩnh vực thiết yếu (sản xuất vũ khí, lương thực, thuốc men y tế), đồng thời cắt giảm tối đa các lĩnh vực không thiết yếu (hàng xa xỉ, mĩ phẩm...) để giành nguồn lực cho các lĩnh vực quan trọng hơn. Kinh tế thị trường không cho phép tập trung nhanh chóng các nguồn tài nguyên, năng lực sản xuất vào các mục tiêu khẩn cấp (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ tập trung sản xuất các mặt hàng có lợi nhuận cao cho bản thân họ chứ không ưu tiên sản xuất hàng hóa thiết yếu mà chính phủ đang cần). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Có thể nói: trong thời kỳ khó khăn thì kinh tế kế hoạch có nhiều ưu điểm hơn kinh tế thị trường. Do vậy, nếu xảy ra khó khăn (chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh), Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để nhanh chóng đáp ứng các nhu cầu khẩn cấp. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2 nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần lớn nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế kế hoạch. Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân phối cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng (như ô-tô dân dụng) bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân đội Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý... cũng thi hành những chính sách tương tự. Enhance your purchase with Clyde protection
4 interest-free payments of $504.4352 with Klarna. Learn More